“Bến không chồng”: câu chuyện về thân phận người phụ nữ thời hậu chiến
Bến không chồng (2000) của đạo diễn Lưu Trọng Ninh có thể coi là một trong những bộ phim kinh điển của nền điện ảnh Việt Nam, tái hiện lại thân phận người phụ nữ vùng đồng bằng Bắc Bộ thời hậu chiến.
Thành công với thể loại phim nhựa
Năm 2000, tiểu thuyết Bến không chồng của nhà văn Dương Hướng được dựng chân thực dưới phiên bản phim nhựa của đạo diễn Lưu Trọng Ninh. Bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết, dài gần 2 tiếng đồng hồ, đã giành giải A của Hội Điện ảnh Việt Nam năm 2000, cùng Giải Bông sen bạc tại Liên hoan phim Quốc gia lần thứ 13 hạng mục phim truyện nhựa năm 2001.
Sau thành công của bộ phim Ngã Ba Đồng Lộc (1998), Lưu Trọng Ninh tiếp tục trung thành với thể loại về phim chiến tranh và hậu chiến. Đọc xong tiểu thuyết Bến không chồng, ông vô cùng xúc động trước sự hy sinh và lòng thủy chung của phụ nữ làng Đông, những người có chồng con đi chiến đấu, mang trên vai gánh nặng chiến tranh, như ông từng chia sẻ “Chiến tranh kết thúc với đàn ông, nhưng không kết thúc với phụ nữ”
Từ Bến không chồng, khán giả được đắm mình trong cuộc sống của người dân làng Đông suốt hai mươi năm sau 1954 – ngôi làng điển hình vùng đồng bằng Bắc Bộ thời điểm trải qua hai cuộc chiến tranh Pháp và Mỹ. Tuy nhiên, bộ phim không chứa cảnh bom đạn khói lửa chiến trường, mà khai thác sâu hơn vào tâm lý và thân phận người nông dân lao động nghèo sau cuộc chiến.
Qua những thước phim nhựa cổ điển và chân thực, đạo diễn Lưu Trọng Ninh hướng ống kính của mình để kể lại câu chuyện về Nguyễn Vạn (Lưu Trọng Ninh) – người lính trở về sau chiến dịch Điện Biên và cuộc sống đan xen giữa hai lớp thế hệ phụ nữ yêu thương ông. Họ đều là những người cần cù, lam lũ, xông xáo, mưu cầu hạnh phúc, nhưng trớ trêu thay, trên con đường lần mò đến tương lai tốt đẹp, họ bị giềng xích lại, bởi nỗi đau chiến tranh và định kiến hủ tục lâu đời của dòng họ.
Soi chiếu hình tượng nhận vật nữ nông thôn
Bà Nhân (NSND Minh Châu thủ vai) là mẫu phụ nữ điển hình Việt Nam xưa, khoan dung, kiên trung và tiết hạnh. Người xem nhìn thấy được những nỗi đau đậm chất đàn bà. Đó là nỗi đau mất lần lượt mất cả chồng và con trai sau hai cuộc chiến tranh, lặng lẽ ở vậy, cáng đáng mọi thứ trong gia đình. Ở tuổi xế chiều, người đàn ông bà thực sự yêu là Nguyễn Vạn, nhưng cả hai không dám đến với nhau vì sợ miệng đời và búa rìu của dư luận. Tình yêu giữa bà Nhân và ông Vạn trở thành một nỗi đau câm lặng, một dấu nặng u ám đè lên cuộc đời họ. Tâm hồn cả hai bị chia đôi, tan vỡ bởi những áp lực vô hình của xã hội, bởi cái bóng của quá khứ chiến tranh và những quy chuẩn đạo đức khắc nghiệt.
NSND Như Quỳnh đảm nhận tốt vai bà Hơn, người phụ nữ mang trong minh một bi kịch giai cấp. Như Quỳnh khắc họa hình ảnh bà Hơn tần tảo, kiên cường, đôi lúc dữ dằn trong việc bảo vệ gia đình, nhất là khi con trai bà bị trẻ làng đánh đập, gắn mác “con địa chủ”. Mối quan hệ giữa bà Hơn và Nguyễn Vạn phản ánh một thực tế phũ phàng của xã hội thời hậu chiến, mặc dù sống cùng nhau, họ thiếu đi sự gắn kết sâu sắc để thực sự trở thành vợ chồng, mà thay vào đó là một mối quan hệ dựa trên sự phụ thuộc, gần như chấp nhận số phận cay đắng.
Hạnh, con gái bà Nhân, là đại diện tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ trẻ, mạnh mẽ, cố gắng vươn lên theo đuổi hạnh phúc, không cam chịu số phận như thế hệ trước. Thúy Hà với vai Hạnh, qua nhiều phân đoạn đặc sắc, đã đánh dấu những bước ngoặt thay đổi về cảm xúc và suy nghĩ khi khi nhân vật đối mặt với hàng loạt bi kịch cuộc đời. Bị gia đình chồng đẩy đến đến mặc cảm “tàn phế”, Hạnh buộc phải ký giấy ly hôn vì không sinh con được nối dõi. Trong cơn tuyệt vọng, cô tìm đến ông Vạn, người chú mà cô kính trọng, và từ mối quan hệ này, Hạnh mang thai, như một cách để hoàn thành thiên chức làm mẹ mà cô luôn ao ước. Từ khi cuộc đời nhân vật bước sang một trang mới, khán giả lại được nhìn thấy bi kịch người phụ nữ ở góc khác, đầy nghẹn ngào.
Những sắc thái tinh tế trong diễn xuất của Thúy Hà đã khắc họa rõ nét sự giằng xé nội tâm nhân vật Hạnh, từ một cô gái hồn nhiên, nhiệt huyết, năng nổ với hoạt động làng xã đến hình ảnh người phụ nữ can đảm, chịu đựng sự giằng xé giữa thực tế tàn nhẫn và ước mơ hạnh phúc của mình.
Thế kỷ XX chứng kiến những hậu quả tai họa từ chiến tranh, của mâu thuẫn dân tộc và bất bình đẳng giai cấp. Tuy nhiên, cũng không thể không khẳng định đó là một thế kỷ lớn lao. Con người đang phấn đấu cho quyền được sống, được ấm no, biết đến mùi vị hạnh phúc gia đình và công bằng xã hội.
Bến không chồng là tác phẩm điện ảnh truyền tải thông điệp nhân văn, tôn vinh vẻ đẹp và nghị lực của người phụ nữ Việt Nam. Bộ phim khắc họa sâu sắc số phận của những người phụ nữ trong thời kỳ chiến tranh và hậu chiến, đối mặt với mất mát, định kiến xã hội và gánh nặng gia đình. Với ý thức mạnh mẽ về hạnh phúc cá nhân, bộ phim tái hiện lại hình tượng những người phụ nữ biết vươn lên, vượt qua mọi thứ thách để sống là chính mình.
Sau thành công thể loại phim nhựa, Bến không chồng lại được chính đạo diễn Lưu Trọng Ninh viết kịch bản và cho ra đời phiên bản truyền hình dài 34 tập Thương nhớ ở ai (2017) – là tác phẩm trọn vẹn hơn cả, đứng về phía phương diện nghệ thuật và nội dung câu chuyện đời sống nông thôn những năm 60, 70 của thế kỷ hai mươi.